Hydrogen Và Liệu Pháp Hỗ Trợ Điều Trị Covid
Hydro đã được chứng minh là có đặc tính chống oxy hóa, chống viêm, điều hòa Hormone và kháng quá trình Apoptosis, trong số những đặc tính khác. Dựa trên đánh giá của nghiên cứu, việc sử dụng Hydro có thể làm giảm cơn bão Cytokine phá hủy và tổn thương phổi do SARS-CoV-2 gây ra trong COVID-19 (Bệnh do vi rút Corona 2019) ở giai đoạn đầu, kích thích thoát đờm rải rác và cuối cùng giảm tỷ lệ mắc bệnh nặng.
Điều trị bằng Hydro phân tử có tiềm năng trở thành một liệu pháp bổ trợ mới cho COVID-19, nhưng hiệu quả và độ an toàn của nó cần có các thử nghiệm lâm sàng lớn và xác nhận thêm.
1. Phản ứng ứng suất oxy hóa và hydro trong COVID-19
Hydro là một chất khí không màu, không mùi và không vị. Năm 2007, Ohsawa và cộng sự. (2007) xuất bản một bài báo trên tạp chí Nature phác thảo rằng việc hít thở 2% Hydro có thể loại bỏ một cách chọn lọc gốc Hydroxyl (OH) và Anion Peroxynitrite (ONOO−) và cải thiện đáng kể tổn thương do thiếu máu cục bộ tái tưới máu ở chuột, điều này đã khởi đầu cho một sự bùng nổ trong nghiên cứu sinh học phân tử dựa trên Hydro.
Cho đến nay, các tác dụng sinh học của Hydro đã được nghiên cứu rộng rãi. Dựa trên các tác dụng sinh học của nó, chẳng hạn như chống oxy hóa, chống viêm, chống Apoptosis và điều hòa Hormone, người ta đã xác định được rằng hydro có tác dụng bảo vệ chống lại nhiều loại bệnh. Đặc biệt, các đặc tính phân tử nhỏ của hydro đảm bảo rằng nó nhanh chóng đến phế nang, điều này cho thấy một lợi thế duy nhất đối với các bệnh về phổi. Với tình hình dịch bệnh hiện tại và dựa trên kinh nghiệm lâm sàng, tính an toàn, khả năng hoạt động và quảng cáo lâm sàng đơn giản.
Superoxide Dismutase (SOD) là một loại Enzyme chống oxy hóa quan trọng trong hệ thống bảo vệ chống oxy hóa của cơ thể. Nó có thể loại bỏ một loạt các chất độc hại hoặc oxy hóa trong cơ thể để loại bỏ thiệt hại cho DNA và các protein chức năng sinh học do các chất này gây ra để duy trì sự ổn định của môi trường bên trong và góp phần chống độc và quá trình chống oxy hóa (Gwarzo và Muhammad, 2010). Sau khi xử lý bằng Hydro, hàm lượng Malondialdehyde trong mô phổi có thể giảm xuống, làm tăng hoạt tính của SOD (Shi et al. 2013).
Điều này giúp duy trì sự ổn định của môi trường bên trong cơ thể để đạt được sự kích hoạt quá mức các quá trình oxy hóa và giảm stress oxy hóa do con đường ROS gây ra. Suy đa cơ quan là nguyên nhân tử vong phổ biến ở bệnh nhân COVID-19 bị bệnh nặng. Hydro có thể được sử dụng để bảo vệ nhiều cơ quan bao gồm tim, thận và hệ thần kinh thông qua các chức năng chống apxe và chống oxy hóa để duy trì phản ứng bình thường của cơ thể và giảm tỷ lệ tử vong (Hayashida và cộng sự, 2012; Hayashida và cộng sự, 2014; Homma và cộng sự, 2014).
2. Hydro làm giảm tiết nhầy liên quan đến COVID-19
Dựa trên kết quả giải phẫu bệnh lý, nhóm nghiên cứu của Liu Liang phát hiện ra rằng ngoài phản ứng viêm quá mức, có thể thấy nhiều chất tiết nhớt tràn ra từ phế nang và các dây xơ trong các phần phổi, và chất tiết nhớt chủ yếu tập trung ở phế quản tận cùng (Liu và cộng sự, 2020). Điều này không phù hợp với biểu hiện lâm sàng của ho khan không có đờm. Liệu pháp oxy lâm sàng được phân phối chủ yếu qua thở oxy dòng cao qua mũi và thông khí hỗ trợ bằng máy thở không xâm nhập. Theo đó, chế độ thông khí áp suất dương của nó sẽ làm tích tụ chất tiết nhớt ở phế quản xa, làm tăng sức cản của đường thở, làm thay đổi tác dụng của liệu pháp oxy và làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu oxy toàn thân. Phát hiện này ngụ ý một tư duy mới có thể điều chỉnh phác đồ được sử dụng trong điều trị lâm sàng. Phun thuốc và làm ẩm có thể trở thành phương pháp điều trị không thể thiếu, nhưng về quy trình điều trị, cần chú ý đến bảo vệ cấp 3 của nhân viên y tế để ngăn ngừa lây truyền qua đường khí dung, điều này sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Chất nhầy bao gồm nước, ion, lipid, protein và phức chất (Voynow và cộng sự, 2006). Trong mô hình động vật, chất nhầy đường thở được phát hiện đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế bảo vệ vật chủ, nhưng việc sản xuất quá nhiều chất nhầy sẽ có hại (Shimizu et al., 2012 ). Muc5ac và Muc5b là các thành phần của mucin, và Muc5ac được sản xuất bởi các tế bào gốc giữa các tế bào biểu mô đường thở (Perezvilar và cộng sự, 2006 ). Chuột được điều trị bằng nước làm giàu hydro đã giảm tổn thương đường thở, biểu hiện Muc5ac và tiết chất nhầy trong các mô hình COPD do khói (Ning et al., 2013 ). Do đó, hít hydro sớm có thể thúc đẩy làm loãng đờm, cải thiện sức cản của đường thở nhỏ và giảm khó thở.
3. Đặc tính an toàn của Hydrogen
Dựa trên thử nghiệm Hydro lâm sàng, sự hấp thụ hydro và uống nước giàu hydro được sử dụng để điều trị. Lợi ích chống mệt mỏi và hiệu suất tiềm năng của nước giàu Hydro (HRW) đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu ngày càng tăng trong 5 năm qua. Ví dụ, bổ sung HRW cấp tính trước khi tập thể dục làm giảm lượng lactate trong máu ở cường độ tập luyện cao hơn, cải thiện nhận thức về nỗ lực do tập thể dục gây ra và tăng hiệu quả thông khí. Đồng thời, hydro, như một chất phân tử nhỏ dễ cháy và nổ, đã được phát triển trên lâm sàng và có thể được ứng dụng một cách an toàn khi tiếp cận với các thiết bị y tế.
Nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng Hydro hòa tan trong dung dịch tưới tiêu làm giảm tổn thương nội mô giác mạc trong quá trình phacoemulsification. Hơn nữa, thở H 2 -O 2 có thể làm giảm nỗ lực thở ở bệnh nhân hẹp khí quản cấp tính nặng và có thể được sử dụng an toàn cho mục đích này.
Mặc dù khí H2 dễ cháy, nhưng nồng độ <4%, cùng với oxy ở nhiệt độ phòng, không thể cháy được. Như được chỉ ra bởi định luật thứ hai của nhiệt động lực học, mặc dù có thể có một số quá trình vật lý thỏa mãn định luật thứ nhất, nhưng các quá trình duy nhất xảy ra trong tự nhiên là những quá trình mà entropi của hệ không đổi hoặc tăng lên. Do đó, H2 thở ra khuếch tán ngay lập tức, không tích tụ hoặc làm tăng nồng độ vượt quá H2 thở ra sự tập trung. Vì vậy, khí H2 2% có thể được sử dụng cẩn thận trong bệnh viện.
Trong quá trình điều trị này, một số rất ít bệnh nhân có các triệu chứng như phân thưa, tăng số lần đại tiện, ợ chua và nhức đầu sau khi uống rượu. Các triệu chứng này có thể thuyên giảm mà không cần can thiệp sau khi bệnh nhân ngừng điều trị bằng Hydro. Đồng thời, những triệu chứng này không có tác dụng phụ nghiêm trọng và tác hại liên quan là rất ít.